Hòa Thượng
THÍCH THIỆN QUẢ
( 1881 – 1962 )
Trụ Trì Chùa Chúc Thánh – Hội An
Hòa thượng thế danh Dương Văn Y, sinh ngày 23 tháng Chạp năm Tân Tị (1881), nhằm vào năm thứ 33 đời vua Tự Đức triều Nguyễn tại xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Do túc duyên nhiều đời nên Ngài sinh vào gia đình chánh tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Thi An, pháp danh Chương Thái, hiệu Quảng Liên và thân mẫu là cụ bà Đỗ Thị Toại. Tuổi đồng ấu, Hòa thượng có tướng mạo rất đoan nghiêm, thông minh khác chúng. Lên 10 tuổi, Ngài có ý định xuất gia nên song thân đưa Ngài đến chùa Hội Phước tại xã Thanh Chiêm, huyện Điện Bàn, Quảng Nam để tu học với Hòa thượng Như Lý-Hoằng Khâm. Tại chùa Hội Phước, Hòa thượng tinh tấn tu học nên không bao lâu đã làu thuộc hai thời công phu cũng như các luật nghi của người mới nhập đạo. Hòa thượng Hoằng Khâm thấy Ngài sáng dạ, tương lai có thể là một bậc Long Tượng của Phật pháp nên đã đưa Ngài về tổ đình Chúc Thánh để tu học, lúc bấy giờ Ngài vừa tròn 15 tuổi. Ngài được tổ Ấn Bính-Phổ Bảo nhận làm đệ tử và cho pháp danh Chơn Chứng, nối pháp dòng Lâm Tế đời thứ 40 và cũng là thế hệ thứ 7 pháp phái Chúc Thánh. Năm 17 tuổi, Ngài ra Tam Thai học tập kinh luật với các Hòa thượng Từ Trí, Từ Nhẫn v.v… trong thời gian 4 năm. Sự tu học của Ngài tiến bộ vượt bậc nên vào năm Tân Sửu (1901), Ngài được Bổn sư cho thọ Sa Di giới tại giới đàn chùa Từ Quang tỉnh Phú Yên, lúc bấy giờ Ngài vừa tròn 21 tuổi. Sau khi thọ giới, Ngài xin Bổn sư được vào tham cứu giáo lý với các vị tôn túc tại Phú Yên như Hòa thượng Pháp Tạng, Pháp Hỷ v.v… Năm Canh Tuất (1910), Ngài được thọ Đại giới tại đại giới đàn chùa Phước Lâm do tổ Vĩnh Gia làm Đàn đầu Hòa thượng, lúc bấy giờ Ngài vừa tròn 30 tuổi. Sau khi thọ giới, Hòa thượng xin phép Bổn sư tiếp tục vào tu học tại chùa Từ Quang ở Phú Yên. Ngài tham học tại Từ Quang được một thời gian thì Bổn sư gọi Ngài về và ấn chứng kế thừa trụ trì Chúc Thánh, bấy giờ là năm Giáp Dần (1914), Ngài vừa tròn 34 tuổi. Cũng trong năm này, Ngài được tổ Vĩnh Gia phú pháp hiệu là Thiện Quả. Hòa thượng về trụ trì Chúc Thánh một thời gian thì đạo phong của Ngài đã lan tỏa khắp nơi, đồ chúng theo về tu học rất đông và ngày mồng 8 tháng 9 năm Canh Thân (1920) nhằm năm Khải Định thứ 5, chùa Chúc Thánh được triều đình ban biển nghạch Sắc Tứ. Năm Mậu Ngọ (1918), Ngài được cung thỉnh làm Đệ Nhất Tôn Chứng trong giới đàn tại chùa Báo Quốc-Huế. Năm Giáp Tý (1924), Ngài lại được chư sơn Huế cung thỉnh làm Đệ thất tôn chứng tại giới đàn chùa Từ Hiếu do Hòa thượng Tâm Tịnh làm Đàn Đầu. Năm Mậu Thìn (1928), Ngài được cung thỉnh làm Đệ Nhất Tôn Chứng Sư trong đại giới đàn tại chùa Từ Vân-Đà Nẵng. Năm Kỷ Tỵ (1929), Ngài đứng ra trùng tu lại phương truợng chùa Chúc Thánh. Năm Quý Dậu (1933), nhằm năm Bảo Đại thứ 8, vào ngày mồng 8 tháng 7, Ngài được triều đình sắc phong Tăng Cang chùa Chúc Thánh và ban cho giới đao, độ điệp. Vào những năm 1930-1940, phong trào chấn hưng Phật giáo dấy lên mạnh mẽ khắp nơi, Hòa thượng được cung thỉnh Chứng minh đạo sư cho Hội An Nam Phật Học tại Quảng Nam. Năm Giáp Tuất (1934), Ngài được cung thỉnh làm Giáo Thọ A-Xà-Lê tại giới đàn chùa Thạch Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Năm Bính Tý (1936), vào ngày 17 tháng 4 nhằm năm Bảo Đại thứ 11, Ngài được triều đình sắc phong Tăng Cang Tam Thai - Linh Ứng nhị tự. Năm Canh Thìn (1940), Ngài được quý Hòa thượng Huệ Chấn cũng như sơn môn Chúc Thánh tại Gia Định cung thỉnh vào chứng minh trường kỳ mở tại chùa Hưng Long. Năm Giáp Ngọ (1954), Ngài trùng tu ngôi chánh điện, Đông đường, Tây đường khang trang để có nơi cho chư Tăng tu học và tạo cho Chúc Thánh có một nét kiến trúc đặc biệt xứng đáng với tầm vóc Tổ đình của một thiền phái lớn. Là một bậc cao tăng, Hòa thượng đã đào tạo được nhiều tăng tài cho Phật giáo Xứ Quảng. Đệ tử xuất gia của Ngài có đến hằng trăm và đều là những đống lương của Phật giáo Quảng Nam trong thời hiện đại và có một số vị hoằng hóa tại các tỉnh thành phía Nam cũng như hải ngoại như: Cố Hòa Thượng Thích Trí Giác: Trụ trì chùa Phước Lâm – Tam Thai. Cố Hòa Thượng Thích Trí Nhãn: Trụ trì tổ đình Chúc Thánh. Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh: Trụ trì chùa Pháp Bảo. Cố Hòa Thượng Thích Như Vạn: Trụ trì chùa Phước Long. Cố Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm: Trụ trì chùa Bửu Đà – Sài Gòn. Cố Hòa Thượng Thích Như Huệ: Khai sơn chùa Pháp Hoa – Nam Úc Vào mùa hạ năm Nhâm Dần (1962), Ngài thị bịnh và viên tịch ngày mồng 6 tháng 7, thế thọ 82 tuổi. Bảo tháp của Ngài được môn đồ an trí bên cạnh tháp tổ Minh Hải trong khuôn viên tổ đình Chúc Thánh. Trong phong trào chấn hưng Phật giáo, tại Quảng Nam, Ngài đã cùng Hòa thượng Phổ Thoại lãnh đạo Tăng tín đồ xây dựng lại nền đạo giáo vốn bị suy đồi do Thực dân gây nên. Công đức và đạo hạnh của Ngài vẫn mãi tỏa rạng trong dòng sử Phật giáo đất Quảng. Phụ Lục: Chuyện kể về Hòa thượng Thiện Quả.- Chuyện về đức độ của Hòa thượng:
- Chuyện về chẩn tế cô hồn:
- Chuyện mở giới đàn:
Hưng Phú